- Phần 1
Hiệu ứng Boomerang mô tả một tình huống tâm lý xã hội khi mà một người trình bày một thông điệp thuyết phục tới những người khác nhưng kết quả là những người nghe lại ở lập trường ngược lại, không như mong muốn ban đầu.
Hiệu ứng này thường được tạo ra khi tỉ lệ người phản đối lớn hơn số người ủng hộ thông điệp gốc.
Các nghiên cứu cho thấy điều này xảy ra khi một người cảm thấy sự tự do lựa chọn của họ đang bị vi phạm nên đôi khi họ phản ứng bằng cách đi đến lập trường ngược lại.
Một trong những ví dụ dễ nhận thấy nhất chính là các câu mệnh lệnh nơi công cộng, ví dụ như “Cấm đổ rác”, “Cấm bước lên cỏ”,…
Đây là những thông điệp mạnh, có thể gây khó chịu cho người đọc và phần lớn là không hiệu quả (nếu như không có người giám sát hoặc không kèm theo hình phạt).
Thay vào đó, có thể đổi các câu trên thành một dạng thông điệp nhẹ hơn, dễ chịu hơn như: “Làm ơn đừng đổ rác tại đây”, “Xin vui lòng không bước lên cỏ”,…
Tuy nội dung dài hơn nhưng những thông điệp này dễ chịu hơn rất nhiều khi nghe hay đọc được, và ít có khả năng tạo ra hiệu ứng Boomerang hơn.
Bạn hãy nhìn 2 hình vẽ này và thử đoán xem hình nào là Bouba và hình nào là Kiki nhé!
Hiệu ứng Bouba / Kiki miêu tả việc chúng ta thường liên kết những âm thanh với một số hình ảnh nhất định.
Chẳng hạn như trong ví dụ phía trên, hình bên trái với những góc nhọn sẽ tạo cảm giác liên kết với từ Kiki, còn hình bên phải với những đường nét tròn, mềm mại sẽ gắn với tên Bouba.
Hiệu ứng tâm lý này được quan sát lần đầu tiên bởi nhà tâm lý học người Đức – Mỹ Wolfgang Köhler năm 1929 trong một thí nghiệm với 2 từ takete và baluba. Ông nhận thấy những người tham gia thí nghiệm có xu hướng gắn những hình sắc cạnh với từ takete và những hình tròn, mềm mại với từ baluba.
Những năm sau đó, thêm nhiều nhà khoa học thí nghiệm tương tự với các từ kiki và bouba cho các sinh viên đại học ở Mỹ và những người nói tiếng Tamil ở Ấn Độ, cũng như những nhóm trẻ em từ 4 tháng tuổi đến 2 tuổi rưỡi và đều cho ra kết quả giống nhau.
Các kết quả thí nghiệm cho thấy bộ não con người thường gắn những ý nghĩa trừu tượng vào các hình dáng, âm thanh theo một cách nhất định.
Trong đời sống, hiệu ứng Bouba / Kiki được ứng dụng rộng rãi trong phim ảnh như video dưới đây:
Ngoài ra, một ví dụ vô cùng phổ biến của hiệu ứng Bouba / Kiki là việc đặt tên.
Một số tên đem lại cảm giác nữ tính, dịu dàng và được dùng để đặt tên cho con gái: Hồng, Lan, Mai, Đào,… Một số tên lại mang cảm giác nam tính, mạnh mẽ thường dùng để đặt tên cho con trai: Hùng, Dũng, Kiên, Cường,…
Hiệu ứng búp bê Kewpie là một thuật ngữ được sử dụng trong tâm lý học phát triển bắt nguồn từ nghiên cứu trong phong tục học, giúp giải thích cách các đặc điểm thể chất của trẻ (chẳng hạn như trán dài và khuôn mặt tròn) thúc đẩy người chăm trẻ chăm sóc chúng. Các đặc điểm cơ thể của đứa trẻ được cho là giống búp bê Kewpie.
Phong tục học (ethology) liên kết việc nghiên cứu hành vi động vật và quan điểm sinh học với hành vi của con người và tổ chức xã hội.
Nhà phong tục học Konrad Lorenz là người đầu tiên mô tả hiệu ứng búp bê Kewpie và đề xuất ý nghĩa tiến hóa có thể có của hiệu ứng này, tiếp theo là công trình của Thomas Alley vào năm 1981.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng những em bé dễ thương hơn, thu hút hơn sẽ nhận được nhiều sự quan tâm của người chăm sóc hơn là những em bé kém thu hút. (Langlois et al., 1995 & Barden et al., 1989)
Tuy nhiên, sự thu hút của trẻ sơ sinh không được coi là một yếu tố trong việc phát triển các mối quan hệ an toàn giữa người chăm sóc và trẻ em, vì hầu hết những đứa trẻ kém hấp dẫn và những đứa trẻ bị dị tật ở sọ và mặt lại thiết lập được mối quan hệ an toàn, tích cực và yêu thương với người chăm sóc của chúng.
Hiệu ứng chắc chắn là hiệu ứng tâm lý dự đoán sự không thích rủi ro khi có lãi và tìm kiếm rủi ro khi thua lỗ khi có sự lựa chọn giữa một lựa chọn chắc chắn và một lựa chọn rủi ro. Ý tưởng này được giới thiệu trong lý thuyết triển vọng (prospect theory) bởi Kahneman và Tversky năm 1979.
Theo 2 tác giả, chúng ta luôn đánh giá những mất mát lớn hơn lợi nhuận nên ta có xu hướng chọn hành động an toàn để tránh tổn thất.
Ví dụ bạn có 2 lựa chọn: một là bạn chắc chắn 100% sẽ nhận được $900, hoặc hai là bạn chỉ có 90% xác suất nhận được $1000, 10% xác suất còn lại bạn sẽ chẳng nhận được đồng nào cả. Vậy bạn sẽ chọn lựa chọn nào?
Trong các thí nghiệm của mình, Kahneman và Tversky cho biết đa số mọi người sẽ chọn lựa chọn đầu tiên, họ muốn có 900 USD một cách chắc ăn và không muốn nhận về 10% rủi ro không có đồng nào cả.
Ở đây, chính sự chắc chắn của lựa chọn đầu tiên đã thu hút bạn. Thông thường, mọi người sẽ chấp nhận một phần thưởng nhỏ hơn nhưng chắc chắn hơn. Đó cũng là lý do tại sao các chương trình khuyến mãi tặng kèm luôn hấp dẫn hơn các chương trình khuyến mãi quay số trúng thưởng.
Điều này ngược lại với sự thua lỗ. Giữa một lựa chọn chắc chắn sẽ bị mất $900 với một lựa chọn có 90% nguy cơ mất $1.000 và 10% cơ hội không mất một đồng nào, thì đa số sẽ chọn lựa chọn thứ hai. Tức là chấp nhận hên xui chỉ để có 10% cơ hội không mất đồng nào còn hơn chắc chắn mất $900.
Tiếp theo, hiệu ứng chắc chắn giả là xu hướng mọi người cảm nhận một kết quả là chắc chắn trong khi nó thực sự không chắc chắn trong quá trình ra quyết định nhiều giai đoạn.
Ví dụ 1: hãy xem xét trò chơi 2 giai đoạn sau.
Giai đoạn 1: bạn có 75% cơ hội kết thúc trò chơi mà không giành được bất cứ điều gì và 25% cơ hội để chuyển sang giai đoạn thứ hai. Nếu bạn đạt đến giai đoạn 2, bạn có sự lựa chọn giữa:
A. Chắc chắn thắng $30
B. 80% cơ hội giành được $45
Bạn phải lựa chọn trước khi trò chơi bắt đầu, tức là trước khi biết kết quả của giai đoạn 1. Vui lòng cho biết lựa chọn mà bạn thích.
Ví dụ 2: bạn thích lựa chọn nào sau đây?
C. 25% cơ hội giành được $30
D. 20% cơ hội để giành được $45
Tương tự, bạn phải lựa chọn trước khi trò chơi bắt đầu.
Mỗi vấn đề được trả lời bởi một nhóm người khác nhau.
Trong ví dụ 1, mọi người ưa thích phương án A hơn với tỷ lệ 74% so với phương án B là 26%, mặc dù lợi nhuận kỳ vọng của phương án B cao hơn.
Trong ví dụ 2, mọi người ưa thích phương án D với tỷ lệ 58% hơn phương án C với tỷ lệ 42%.
Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các câu trả lời rất đáng ngạc nhiên vì 2 ví dụ được thiết kế làm sao cho có kết quả giống hệt nhau. Các phương án trong ví dụ 2 được thiết kế dưới dạng thu gọn của các lựa chọn trong cả 2 giai đoạn ở ví dụ 1.
(25% cơ hội tiếp tục(giai đoạn 1) x 100%(giai đoạn 2) = 25%) cơ hội giành được $30. Lợi tức dự kiến đều là $7,50 trong phương án A và phương án C.
(25% cơ hội tiếp tục(giai đoạn 1) x 80%(giai đoạn 2) = 20%) cơ hội giành được $45. Lợi tức dự kiến đều là $9 trong phương án B và phương án D.
Kahneman và Tversky gọi tỷ lệ này là kết quả của cái mà họ gọi là hiệu ứng không chắc chắn giả. Họ kết luận rằng khi mọi người đưa ra lựa chọn ở giai đoạn sau của vấn đề, họ thường không nhận ra rằng sự không chắc chắn ở giai đoạn trước đó sẽ ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng.
Điều này đã được quan sát rõ ràng trong ví dụ hai giai đoạn được trình bày ở trên, trong đó vấn đề chỉ chuyển sang giai đoạn thứ hai nếu điều kiện của giai đoạn đầu tiên được đáp ứng.
Trong ví dụ 2, vì các cá nhân không có quyền lựa chọn ở giai đoạn đầu, nên mọi người có xu hướng loại bỏ lựa chọn đầu tiên khi đánh giá xác suất thắng tổng thể, và chỉ xem xét các lựa chọn trong giai đoạn thứ hai mà họ có quyền lựa chọn.
Điều này còn được gọi là sự hủy bỏ, có nghĩa là các lựa chọn có thể mang lại cùng một kết quả, do đó bỏ qua quá trình quyết định trong giai đoạn đó.
Hiệu ứng chân lý ảo tưởng, còn được gọi là hiệu ứng sự thật (truth effect) là xu hướng tin rằng thông tin sai là đúng sau khi được tiếp xúc nhiều lần.
Hiện tượng này lần đầu tiên được xác định trong một nghiên cứu năm 1977 tại Đại học Villanova và Đại học Temple.
Khi một sự thật được đánh giá, mọi người thường dựa vào việc liệu thông tin có phù hợp với tầm hiểu biết của họ không, hay là thông tin đó có quen thuộc với họ không.
Điều kiện đầu tiên khá hợp lý, khi mà mọi người so sánh thông tin mới với những gì họ đã biết là đúng để đưa ra kết luận thông tin mới là đúng hay sai.
Còn với điều kiện thứ hai, sự lặp đi lặp lại làm cho các thông điệp được xử lý dễ dàng hơn, nên các thông tin đã được lặp lại được kết luận là đúng hơn, đáng tin hơn so với các thông tin mới chưa được lặp lại bao giờ.
Hiệu ứng chân lý ảo tưởng cũng có liên quan đến thiên lệch nhận thức muộn (hindsight bias), trong đó sự hồi tưởng về sự tự tin bị lệch sau khi sự thật đã được tiếp nhận.
Hiệu ứng chân lý ảo tưởng đóng một vai trò quan trọng trong các lĩnh vực như chiến dịch bầu cử, quảng cáo, truyền thông tin tức và tuyên truyền chính trị.
Hiệu ứng chiếc quạt là một hiện tượng tâm lý thuộc nhánh tâm lý học nhận thức, trong đó thời gian nhận biết hoặc tỷ lệ sai sót đối với một khái niệm cụ thể tăng lên khi có thêm thông tin về khái niệm đó.
Từ “chiếc quạt” (fan) đề cập đến nhiều liên kết hoặc mạng lưới ý tưởng của khái niệm, khi được minh hoạ qua sơ đồ trông như tạo thành một cái quạt.
Hiệu ứng Chiếc quạt lần đầu tiên xuất hiện trong một loạt thí nghiệm do John R. Anderson, nhà tâm lý học nhận thức, thực hiện vào năm 1974.
Kết quả cho thấy những người tham gia khó phân biệt các khái niệm với nhiều mối liên hệ hơn là những khái niệm có ít mối liên hệ.
Ví dụ:
Chuỗi thứ nhất gồm các cụm từ “sách và táo”, “ghế và xe”, “cây và gạo” dễ nhớ hơn so với chuỗi thứ hai gồm các cụm từ “sách và ghế”, “ghế và bàn”, “bàn và táo”.
Chúng ta thường mất nhiều thời gian hơn để nhớ lại sự khác biệt trong chuỗi thứ hai vì có nhiều chi tiết giống nhau hơn do có nhiều liên kết với nhau hơn. Kết quả là thời gian xử lý lâu hơn hoặc xác suất mắc lỗi cao hơn.
Trong marketing, hiệu ứng chim mồi mô tả cách thức khi chúng ta đang lựa chọn giữa hai lựa chọn thay thế, việc thêm một lựa chọn thứ ba kém hấp dẫn hơn (chim mồi hay mồi nhử) có thể ảnh hưởng đến nhận thức của chúng ta về hai lựa chọn ban đầu.
Mồi nhử “chiếm ưu thế bất đối xứng” (asymmetrically dominated): chúng hoàn toàn thua kém một phương án (mục tiêu) nhưng chỉ kém một phần so với phương án kia (đối thủ cạnh tranh). Vì lý do này, hiệu ứng chim mồi đôi khi được gọi là hiệu ứng ưu thế bất đối xứng.
Ví dụ: khi bạn đi cà phê ở Starbucks, bạn có 2 lựa chọn là cốc nhỏ giá €2,5 và cốc lớn giá €3,5 thì bạn sẽ chọn cốc nào? Cứ coi như xác suất bạn chọn 1 trong 2 cốc là 50%, tuỳ vào sở thích của bạn. Nhưng khi có thêm 1 lựa chọn thứ 3 là một cốc lớn với mức giá €5,0 và cốc lớn khi nãy bây giờ chỉ là cốc vừa, bạn sẽ chọn cốc nào?
Theo hiệu ứng chim mồi thì phần lớn mọi người sẽ chọn cốc vừa, đơn giản vì đó là phương án “nằm giữa”, bạn sẽ không cảm thấy ngại như khi mua cốc nhỏ hay cảm thấy tốn tiền khi mua cốc lớn. Lúc này, cốc lớn €5,0 được thêm vào với vai trò là “chim mồi” để xác suất bạn mua cốc €3,5 cao hơn, không còn là 50% như ban đầu nữa.
Hiệu ứng chữ cái bị thiếu đề cập đến phát hiện rằng khi mọi người được yêu cầu phát hiện các chữ cái đích một cách có ý thức trong khi đọc văn bản, họ bỏ sót nhiều chữ cái hơn trong các từ chức năng (function words) hay gặp (ví dụ: chữ “h” trong “the”) so với các từ nội dung (content words) ít gặp hơn. (Healy, 1976 & 1994)
Hiệu ứng chữ cái bị thiếu còn được gọi là hiệu ứng ưu việt của từ đảo ngược (reverse word superiority effect), vì nó mô tả hiện tượng mà các chữ cái trong các từ thường gặp hơn lại khó nhận diện hơn, trong khi lẽ ra việc nhận diện ra những chữ cái đó được hưởng lợi từ việc tăng tần suất từ.
Phương pháp mà các nhà nghiên cứu sử dụng để đo lường hiệu ứng này được gọi là nhiệm vụ phát hiện chữ cái. Nhiệm vụ này sử dụng giấy và bút, những người đọc được yêu cầu khoanh tròn một chữ cái đích, chẳng hạn như chữ “t” mỗi khi họ bắt gặp nó trong khi đọc một đoạn văn.
Hiệu ứng chủng tộc khác giải thích tại sao một số người nhận diện khuôn mặt của những người thuộc chủng tộc của họ tốt hơn là những người thuộc chủng tộc khác.
Nó đôi khi còn được gọi là thiên vị chủng tộc của mình (Own-race bias).
Nghiên cứu sâu hơn về hiệu ứng chủng tộc khác cũng đã chỉ ra hai 2 kiểu xử lý thông tin để nhận dạng khuôn mặt: theo nét đặc trưng (featural) và theo tổng thể (holistic).
Người ta nhận thấy rằng việc nhận diện khuôn mặt một cách tổng thể thường được sử dụng nhiều hơn trong các tình huống cùng chủng tộc.
Ngoài ra, có một kiểu nữa gọi là hiệu ứng trải nghiệmI (experience effect), nghĩa là khi một người có nhiều trải nghiệm hơn với những người thuộc một chủng tộc cụ thể, người đó sẽ có xu hướng sử dụng kiểu nhận diện khuôn mặt một cách tổng thể với chủng tộc đó.
Nhận diện khuôn mặt theo các nét đặc trưng thường được sử dụng nhiều hơn với những khuôn mặt không quen thuộc (thường là ở chủng tộc khác).
Hiệu ứng cộng hưởng nhóm cho rằng kết quả hoạt động của cả một nhóm người sẽ tốt hơn kết quả hoạt động của bất cứ cá nhân nào trong nhóm đó hoặc bất cứ sự kết hợp nào của từng cá nhân lại với nhau.
Hiệu ứng tâm lý này được giới thiệu lần đầu vào năm 1964 bởi 2 tác giả Barry E. Collins và Harold Guetzkow qua cuốn Social Psychology of Group Processes for Decision Making.
Hiệu ứng Coolidge là một hiện tượng sinh học được thấy ở động vật, theo đó con đực thể hiện hứng thú tình dục mới bất cứ khi nào có con cái mới được giới thiệu để quan hệ tình dục, ngay cả sau khi thoả mãn tình dục với những bạn tình trước đó rồi nhưng nó vẫn còn sẵn sàng để giao phối tiếp.
Ở một mức độ thấp hơn, ảnh hưởng cũng được thấy ở con cái đối với bạn tình của chúng.
Hiệu ứng Coolidge được cho là làm tăng khả năng đáp ứng tình dục (sexual responsiveness) và rút ngắn thời gian chịu đựng tình dục (sexual refractory period).
Lợi ích tiến hóa của hiện tượng này là những con đực có thể thụ tinh cho nhiều con cái.
Con đực có thể được hồi phục nhiều lần để thụ tinh thành công nhiều con cái.
Kiểu hệ thống giao phối này được gọi là đa thê (polygyny), nơi một con đực sẽ có nhiều bạn tình giống cái, nhưng mỗi cá thể giống cái chỉ được phép giao phối với một hoặc một vài bạn tình giống đực khác.
Hiệu ứng Coolidge được đặt ra vào năm 1958 bởi Frank A. Beach bắt nguồn từ một câu chuyện liên quan tới vợ chồng Tổng thống Mỹ thứ 30 là ông Calvin Coolidge.